Lăng Thiệu Trị hay còn gọi là Xương Lăng là một trong những khu lăng nổi tiếng ở Huế, là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào ngày 11/12/1993. Đây là nơi an nghỉ của vua Thiệu Trị – vị vua thứ 3 triều đại nhà Nguyễn.
Dù có nhiều điểm tương đồng với lăng Gia Long và lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị vẫn có những nét rất riêng, có thể coi là độc nhất vô nhị.
Lăng Thiệu Trị ở đâu?
Lăng Thiệu Trị thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách kinh thành Huế khoảng 8km. Xương lăng là lăng duy nhất hướng mặt về hướng Tây bắc, hướng không được dùng đến trong các công trình kiến trúc cung điện, lăng tẩm thời nhà Nguyễn. Xung quanh lăng được bao quanh bởi những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh.
Đôi nét về Vua Thiệu Trị
Vua Thiệu Trị tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông (1807 – 1847) – vị vua thứ ba triều đại nhà Nguyễn, là con trai trưởng của vua Minh Mạng. Sau khi lên ngôi được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh và băng hà vào ngày 4/11/1847, hưởng thọ 41 tuổi. Lúc sinh thời ông chưa nghĩ đến việc xây cất sơn lăng cho mình nên khi vua Thiệu Trị băng hà, thi hài của ông được quàn tại điện Long An cung Bảo Dịnh 8 tháng. Vua Tự Đức (con trai cua Thiệu Trị) lên nối ngôi vua và tiến hành xây lăng cho vua cha.
Lịch sử hình thành Lăng Thiệu Trị
Về lịch sử hình thành của lăng Thiệu Trị, theo sử cũ, sau khi ở trên ngai vàng được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh qua đời ngày 4/11/1847, khi mới ngoài 40 tuổi. Trong lúc hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi về việc xây lăng của mình.
Vua căn dặn rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”.
Vua Tự Đức lên nối ngôi đã lệnh cho các thầy địa lý tìm đất để xây lăng cho vua cha. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy. Sau đó núi ấy được cải tên là núi Thuận Đạo còn lăng được gọi là Xương Lăng
Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn các đại thần phải bắt chước cách làm toại đạo giống lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện… thì phải theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm.
Dưới sự đốc thúc của vua Tự Đức, quá trình xây cất Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút chưa từng có.
Quá trình xây dựng Lăng Thiệu Trị
Vào tháng 11/2/1848, Xương Lăng bắt đầu khởi công và xây dựng, lăng được xây dựng theo ý nguyện của vua thiệu Trị trước lúc qua đời. Đến tháng 3/1848 xây dựng xong Toại đạo giống lăng Minh Mạng (là đường hầm đưa quan tài nhà vua huyệt mộ). Tháng 5/1848 các công trình kiến trúc chính của lăng được hoàn thành.
Ngày 14/6/1848, vua Tự Đức thân hành lên Xương lăng kiểm tra công trình lần cuối, mười ngày sau thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào trong lăng an táng sau 8 tháng quàn trong kinh thành.
Tấm bia “Thánh đức thần công” với bài bi ký dài hơn 2.500 chữ do vua Tự Đức viết dài về cuộc đời và công lao của vua cha được dựng vào tháng 11/1848. Lăng thiệu Trị được xây dựng trong vòng chưa đầy 10 tháng.
Sau nhiều thăng trầm của lịch sử, ngày nay lăng Thiệu Trị đã xuống rất cấp nặng nề. Hiện trạng này khiến lăng không được nhiều du khách ghé thăm như lăng các vị vua Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định. Đến tháng 3/2006, Bộ Văn hóa thông tin có quyết định trùng tu, tôn tạo Xương Lăng, tổng kinh phí đầu tư hơn 106 tỷ đổng.
Kiến trúc của Lăng Thiệu Trị
Về tổng thể kiến trúc của lăng Thiệu Tri bao gồm 2 khu vực chính đó là: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm (khu vực điện thờ) nằm bên trái.
Khu Lăng
Khu lăng nằm ở bên phải, phía trước là hồ Nhuận Trạch thông với hồ Điện. Sau hồ là Bức bình phong, tiếp đó đến Nghi Môn bằng đồng theo hình rồng vờn mây dẫn vào Bái Đình. Nếu trục tẩm điện có hồ Điện thì trục lăng có hồ Nhuận Trạch án ngữ phía trước.
Ở hai bên sân chầu là hai hàng tượng đá, đặc trưng cho nghệ thuật tạc tượng vào nửa đầu thế kỷ XIX ở Huế. Ngay sau hồ Nhuận Trạch là một nghi môn bằng đồng đúc theo kiểu “long vân đồng trụ” dẫn vào sân Bái Đình rộng lớn.
Tiếp đến là Bi Đình và Lầu Đức Hinh nằm trên đồi cong dạng mai rùa. Hai bên sân Bái Đình có hàng tượng đá tái hiện hình ảnh các quan văn võ, các loài vật dùng để cưỡi như ngựa, voi.
Bi Đình hay còn được gọi Phương Đình, nơi đây có tấm bia khắc 2.500 chữ của vua Tự Đức viết về vua cha.
Khu Tẩm
Khu tẩm hay được gọi là điện thờ được xây dựng cách riêng, cách Lầu Đức Hinh 100m về phía trái.
Lầu Đức Hinh ngự trên một quả đồi thấp hình mai rùa. Ngày nay công trình đã sụp đổ, chỉ còn lại phần nền và bậc cấp. Theo các hình ảnh tư liệu xưa, lầu Đức Hinh mang dáng dấp như Minh Lâu ở lăng Minh Mạng.
Sau lầu Đức Hinh là hai vườn hoa nằm đối xứng hai bên, tương tự hai vườn hoa sau Minh Lâu ở lăng Minh Mạng. Kế tiếp là hồ Ngưng Thúy án ngữ trước tòa Bửu Thành gồm có 3 cây cầu: Cầu Chánh Trung ở giữa, bên phải là Cầu Đông Hòa, bên trái có Cầu Tây Đình, đến tâm cấp vào Bửu Thành, nơi cất đặt thi hài vua Thiệu Trị.
Nghi Môn được xây dựng bằng đá cẩm thạch, đi qua Nghi Môn, bước lên 3 bậc tam cấp qua Hồng Trạch Môn sẽ đến điện Bửu Đức.
Hồng Trạch Môn là cánh cổng có dạng vọng lâu, kiến trúc mang nhiều nét tương đồng với Hiển Đức Môn ở lăng Minh Mạng và Khiêm Cung Môn ở lăng Tự Đức sau này.
Sau Hồng Trạch Môn là điện Biểu Đức, công trình trung tâm của khu tẩm điện. Nơi thờ bài vị của vua Thiệu Trị và Nghi Thiên Chương Hoàng hậu (bà Từ Dũ). Trong chính điện trên những cỗ diêm ở của Hồng Trạch và bộ mái có khắc trên 450 ô chữ khắc các bài thơ có giá trị văn học và giáo dục.
Ngoài ra, vẻ tôn nghiêm của chính điện còn được tôn thêm bởi các công trình phụ như Tả Hữu Phối điện (phía trước), Tả Hữu tùng viện (phía sau) quây quần chung quanh điện Biểu Đức càng tôn thêm vẻ cao quý của chính điện.
Giới nghiên cứu đánh giá
Giới nghiên cứu đánh giá, lăng Thiệu Trị là sự dung hòa hai mô thức kiến trúc của hai lăng vua được xây dựng trước đó là lăng Gia Long và lăng Minh Mạng.
Cụ thể, các nhà thiết kế lăng Thiệu Trị đã tách riêng khu vực tẩm điện trong lăng Minh Mạng rồi cải tiến, sửa đổi cho phù hợp với cảnh quan nơi xây lăng Thiệu Trị để tạo ra đồ án thiết kế lăng này.
Bên cạnh đó, lăng Thiệu Trị cũng giống lăng Minh Mạng ở cách thức mai táng và xây dựng toại đạo (đường hầm để đưa thi hài vua vào huyệt mộ), Bửu Thành hình tròn với hồ hình bán nguyệt bao bọc ở phía trước.
Trên phương diện phong thủy, lăng Thiệu Trị lại có nhiều nét gần gũi với lăng Gia Long, thể hiện ở việc sử dụng các ngọn núi tự nhiên và gò đất nhân tạo để làm bình phong, hậu chẩm. Ngoài ra, hai lăng còn giống nhau ở chỗ không xây La thành, khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau.
Dù có nhiều điểm tương đồng với lăng Gia Long và lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị vẫn những nét rất riêng, có thể coi là độc nhất vô nhị. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng không được dùng trong kiến trúc cung đình thời Nguyễn.
Nếu La thành của lăng Minh Mạng là tường gạch, lăng Gia Long là đồi núi bao quanh, thì La thành của lăng Thiệu Trị là những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn. Chính vòng La thành đậm chất thôn quê này tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.
Yêu Huế tổng hợp | Hình ảnh bởi Redsvn.Net